Đăng kí miễn phí - 6789betting

  1. Sài Gòn – Nam Bộ điểm đến của kịch nói phương Tây

Sự kiện công diễn vở Chén thuốc độc của Vũ Đình Long vào 22/10/1921 tại Hà Nội được xem là sự kiện lịch sử và được ghi nhận là ngày đầu tiên công diễn một vở kịch nói của người Việt, do chính những người Việt sáng tác và biểu diễn. Nhưng có thể nói bến đỗ đầu tiên của Kịch nói phương Tây khi vào Việt Nam đó chính là Sài Gòn - Nam Bộ. Thực tế thì có thể thấy rằng người Pháp khánh thành Nhà hát Lớn Hà Nội vào năm 1911 tức sau Nhà hát Lớn tại Sài Gòn cả chục năm (1900). G.S Hoàng Như Mai đã nói về kịch nói tại Sài Gòn giai đoạn này như sau: “cái loại hình kịch nói (thoại kịch) được giới thiệu với người Sài Gòn từ những gánh hát Tây này, khi nhà hát Đô Thành được xây dựng thì hàng năm bọn Pháp lại đón các đoàn kịch sang diễn. Các công chức và thân hảo của Thành phố được mời đi xem”. Trước đó vào năm 1863 đã có các gánh hát Tây qua diễn tại Sài Gòn để giải sầu cho khách viễn chinh, ban đầu họ hát tại nhà của Thủy Sư Đề đốc tại nơi gọi là Công trường Đồng hồ (Place de l’Horloge) góc Tự Do và Nguyễn Du ngày nay, lúc ấy nhà thờ lớn chưa có. Như vậy có thể nói những đoàn kịch (kịch nói và nhạc kịch) của Pháp đã có mặt tại Sài Gòn sớm hơn cả Hà Nội, Hải Phòng.

Cũng cần phải nói thêm rằng từ năm 1907 tại Sài Gòn đã có ấn hành tờ Tạp chí Sân khấu (Saigon théâtre) giới thiệu, phê bình các vở diễn tại nhà hát Đô Thành, như vậy, tờ báo chuyên về nghệ thuật sân khấu đã ra đời đầu tiên tại vùng đất Sài Gòn. Năm 1918 Lê Quang Liêm (Đốc Phủ Bảy) cộng tác với ký giả Đặng Thúc Liêng cho công diễn vở kịch Hoàng tử Cảnh du Tây hay còn gọi là Gia Long tẩu quốc, đây là vở được viết theo lối văn biền ngẫu, được diễn theo cách nói lối, phong cách giống kịch cổ điển Pháp, và hoàn toàn không có ca nhạc gì trong đó cả (trước đó, diễn kịch thường hay kết hợp với ca nhạc) và là vở kịch có vẻ ca ngợi Đại Pháp. Năm 1933-1934 Lê Văn Đức (Jacques Lê Văn Đức) thành lập một đoàn kịch nói có tên là Đức Hoàng Hội, nhưng đoàn kịch tồn tại được không lâu. Báo Phụ nữ Tân văn ghi nhận “chẳng bao lâu người ta không nghe thấy tiếng Đức Hoàng Hội nữa. Kịch vừa sinh ra đó rồi mất liền đó. Thì ra người Nam mình ít ưa cái cách nói chuyện”. Tuy nhiên “nói là người Nam mình không ưa thì cũng chưa đúng lắm. Phải nói rằng: Nhu cầu xem hát của công chúng Sài Gòn đã được thỏa mãn bởi sân khấu Cải Lương, một loại hình ca kịch dân tộc hiện đại, sinh ra do nhu cầu cải cách của khán giả” [5].

  1. Những dấu ấn của Kịch nói Sài Gòn – Tp.Hồ Chí Minh

        2.1 Thăng trầm các ban “thoại kịch”

Nếu như trước đây diễn kịch nói ở Sài Gòn chỉ là hình thức diễn tài tử, diễn chơi, và mục đích biểu diễn thường là làm từ thiện, diễn xong thì nhà ai nấy về, thì khi ban kịch Dân Nam ra đời đã như là một đoàn kịch chuyên nghiệp, qui tụ nhiều nghệ sĩ nổi tiếng như: Anh Lân (sáng lập và điều hành), Vân Hùng, Hoàng Mai, Xuân Phát, Anh Sơn, Kim Cương, Túy Hoa, Túy Phượng, Tuyết Vân, Túy Hồng, Thu Cúc, Tường Vi... Đến năm 1959 số các ban kịch nói (thoại kịch) tham gia với đài Truyền hình đã lên đến 30 ban lớn nhỏ như: Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng, Vũ Đức Duy, Gió Nam, Sống, Trường Thủy, Bạch Tường, Đen Trắng......lúc này kịch nói đã có nhiều nghệ sĩ lừng danh như: Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng và có những giáo sư, đạo diễn về kịch nghệ cũng lên sân khấu như: Mỹ Tín, Vũ Đức Duy, nhiều nghệ sĩ kịch nói cũng đã được khán giả ái mộ như: Túy Hoa, Kiều Hạnh, Bích Sơn, Mỹ Chi, Tú Trinh, Anh Lân, Vân Hùng, Huỳnh Thanh Trà, Ngọc Đức, Khả Năng, Xuân Phát, Hoàng Mai… Giai đoạn 1954 - 1970 do thị hiếu của khán giả thay đổi nên hình thức Đại nhạc hội “ăn nên làm ra” vì vậy nhiều ban kịch đã tổ chức diễn kịch ngắn xen trong các chương trình đại nhạc hội để “có đất sống” chứ không dàn dựng các vở diễn có thời lượng dài nữa. Lúc này tại Sài Gòn đã có hiện tượng chạy tăng-đe (chạy show) tức trong một đêm có ban kịch diễn ở Sài Gòn rồi chạy vào Chợ Lớn hoặc xa hơn là từ Sài Gòn chạy đi Mỹ Tho, Biên Hòa, Long Xuyên… Nhưng so với những năm trước thì giai đoạn năm 1961 là giai đoạn mà thoại kịch gặp nhiều khó khăn, chính sách quản lý của chính quyền, tình hình chiến sự, khó khăn về soạn giả và biểu diễn, thiếu rạp hát. Năm 1962 tại “Sài Gòn lúc này với 2 triệu dân nhưng có 5 rạp hát đầy đủ tiện nghi, còn các rạp còn lại chưa đáp ứng được nên các đoàn hát phải đi lưu diễn các nơi khác” [6, tr.12]… đã làm cho thoại kịch như xuống cấp. Và tuy hiến pháp của chính quyền Sài Gòn đồng ý cho mọi người có quyền tham gia và hưởng thụ từ các hoạt động văn hóa văn nghệ nhưng lại bắt những người đứng đơn xin diễn thoại kịch phải đóng thuế như buôn bán phải có thuế môn bài vậy. Giai đoạn này cũng đã có sự phát triển của báo chí viết về nghệ thuật trong đó có kịch nói ở Sài Gòn, nhiều bài viết của các tác giả, nhà soạn kịch, ký giả, các nhà hoạt động chuyên môn viết và phân tích về kỹ thuật biểu diễn của diễn viên khá chi tiết và như là những người cung cấp lý luận đầu tiên về kịch nói ở đây.

Báo Văn Đàn, số 11, ra ngày 31/8/1961 có đăng bài của Mỹ Tín với tựa đề “Nhân nghe nhà soạn kịch Vi Huyền Đắc diễn thuyết” trong đó có đoạn viết “sự thành công của kịch sĩ trên sân khấu do kỹ thuật diễn xuất quyết định, nếu lý trí không nắm vai trò chủ động thì kịch sĩ tránh sao khỏi những trường hợp diễn ra ngoài công thức, ngoài qui tắc, ngoài lề luật”. [11,tr.5]. Trong giai đoạn này một hội đồng giám khảo cuộc thi về thoại kịch cũng đã được thành lập vào ngày 05/08/1960 với thành phần với chủ tịch hội đồng là Vi Huyền Đắc và các ủy viên Vũ Khắc Khoan, Vũ Đức Duy… Những năm 1970 -1975, do trào lưu các phim Mỹ, Nhật, Hồng Kông, Đài Loan tràn vào Miền Nam nên phần lớn các rạp đều được biến thành rạp chiếu phim để thu lợi nhuận dẫn đến cải lương, kịch, đại nhạc hội đều gặp khó khăn trong việc tìm điểm diễn. Những năm cuối của giai đoạn này do tình hình chiến sự và sự sụp đổ từ từ của chính quyền Sài Gòn nên sự phát triển của kịch nói cũng không nhận được sự quan tâm của công chúng lẫn chính quyền. 

2.2 Dấu ấn của kịch Kim Cương

Du nhập từ phương tây Kịch nói vào Việt Nam cũng luôn biến đổi không ngừng. Nếu như kịch chuyên nghiệp miền Bắc được ra đời sớm hơn thì Kịch Nam Bộ được xem như là sinh sau đẻ muộn với nhiều con đường, nhưng có những con đường chính có thể phải nhắc đến. Con đường thứ nhất đó là đó là sự chuyển đổi của các nghệ sĩ trước đó vốn biểu diễn Cải Lương nhưng sau đó đã chuyển sang lĩnh vực kịch nói. Tiêu biểu cho hướng đi này đó chính là nghệ sĩ Kim Cương và các ban kịch, đoàn kịch của các nghệ sĩ Miền Nam, họ là những người đã có mặt và làm nghề tại Sài Gòn trước năm 1975, họ đã sáng tạo nên những vở diễn của mình phù hợp với nhu cầu của đất nước và công chúng trong từng giai đoạn. Đặc biệt là nghệ sĩ Kim Cương, từ một nghệ sĩ nhà nòi Cải Lương bằng tâm huyết, lòng yêu nghề, cộng với sự am hiểu về nhu cầu thưởng thức nghệ thuật của công chúng nhất là sau chuyến đi Pháp trở về chị đã cho ra đời “thể loại” kịch mà sau này gắn liền luôn với tên của mình Kịch Kim Cương. Là người có truyền thống gia đình theo Cải Lương, lại ảnh hưởng từ Tây học, Kim Cương lên sân khấu lúc 6 tuổi, phụ trách đoàn Cải Lương Năm Phỉ - Kim Cương từ năm 1954 - 1957, đến năm 1957 tự ý giải tán đoàn cải lương để sang diễn kịch nói và đóng phim, đến cuối năm 1959 thành lập ban kịch Kim Cương. Theo GS. Hoàng Như Mai “Ban kịch xứng đáng đánh dấu nền kịch nói Thành Phố Sài Gòn là ban kịch Kim Cương” [5, tr.177]. Chính trên nền tảng văn hóa Nam Bộ đã góp phần tạo nên một thương hiệu Kịch Kim Cương không thể lẫn lộn vào đâu được. Với những vở diễn về thân phận người phụ nữ, về “Mẹ” như: Tôi là mẹ, Trà hoa nữ, Nước mắt con tôi,  Sắc hoa màu nhớ, Vùng bóng tối, Cuối đường hạnh phúc, Người nuôi hy vọng, Khát sống, Huyền thoại mẹ…đặc biệt hai vở Lá sầu riêng (Duyên kiếp lỡ làng), Dưới hai màu áo (Ai là vợ) đã mê hoặc khán giả xem kịch kể cả trước năm 1975 và cả những năm sau này. GS.TS Trần Văn Khê đã nhận xét về nghệ thuật kịch của Kim Cương: “Tôi đã từng xem Trà hoa nữ ở Pháp, do người Pháp diễn, nhưng khi xem đoạn Kim Cương diễn cô vũ nữ đối thoại với cha của người yêu, mới thấy những phát hiện tâm lý của Kim Cương quả là tài tình. … Kim Cương đã Việt Nam hóa kịch nước ngoài, làm giàu cho kịch nghệ Việt Nam”.

    2.3. Kịch nói ngày hội tụ

Ngày 22/5/1975, tàu Đồng Nai cập bến cảng Sài Gòn mang theo các nghệ sỹ của đoàn Kịch nói Nam Bộ từ miền Bắc về và sân khấu kịch nói đã có thêm một đơn vị chuyên nghiệp nữa cùng tồn tại, thúc đẩy kịch nói Thành phố phát triển. Từ lúc có mặt ở Sài Gòn, Đoàn Kịch nói Nam Bộ đã biểu diễn những vở đã diễn ở miền Bắc như: Chuông đồng hồ điện Kremli, Hòn đảo Thần Vệ nữ, Người ven đô... sau đó Đoàn được kết hợp với các nghệ sĩ từ trong chiến khu ra. Ngày 03/9/1976 Đoàn được đổi tên thành Đoàn kịch Cửu Long Giang, đến ngày 31/5/1977 thì Bộ Văn Hóa đã quyết định chuyển giao đoàn kịch Cửu Long Giang về cho Ủy ban nhân dân Tp. Hồ Chí Minh quản lý, năm 1988 thì được chuyển thành Đoàn Kịch nói Thành Phố đến năm 1997 thì đổi tên lần nữa thành Nhà hát Kịch Thành phố. Các nhóm kịch từ trong chiến khu sau ngày đất nước thống nhất cũng đã trở về hòa góp phần không nhỏ làm phong phú nền kịch nghệ thành phố lúc bấy giờ. Ngày 21/8/1997 thủ tướng Phan Văn Khải đã ký và cho ban hành nghị quyết 90-CP của chính phủ về “phương hướng và chủ trương xã hội hoá các hoạt động giáo dục, y tế, văn hoá (đã được chính phủ thông qua tại phiên họp thường kỳ tháng 3 năm 1997” đây chính là cơ sở pháp lý rất quan trọng để thúc đẩy phát triển các hoạt động y tế, giáo dục, đặc biệt là văn hóa nghệ thuật. Đặc biệt đối với một vùng đất năng động như Tp.Hồ Chí Minh thì tác động của nghị quyết này đối với hoạt động nghệ thuật đặc biệt là lĩnh vực kịch nói hết sức to lớn. Từ cơ sở này mà hàng loạt các sân khấu Xã hội hóa ra đời bên cạnh đó vai trò của sân khấu công lập cũng được đánh giá lại đúng mức, chính vì thế nó đã tạo nên bức tranh đa sắc màu của kịch nói tại thành phố. Nhiều đoàn nghệ thuật hoạt động trên lĩnh vực kịch nói chuyên nghiệp, các nhóm kịch, các tụ điểm diễn kịch cũng ra đời trong giai đoạn này có thể kể như: Đoàn Nghệ thuật Sân Khấu Trẻ (Đoàn Kịch trẻ), Sân khấu Hài 135 Hai Bà Trưng, Sân khấu Kịch Sài Gòn, Sân khấu Kịch Idicaf,… đặc biệt là sự ra đời của CLB Sân Khấu Thể Nghiệm 5B sau này là Nhà hát Kịch Sân khấu nhỏ với hướng đi riêng về sân khấu thể nghiệm. Ngoài những thành công mang tính đột phá của loại hình sân khấu nhỏ mà có thể nói bắt đầu là dấu ấn với vở diễn Dạ cổ hoài lang thì giai đoạn này cũng là giai đoạn thành công của những vở diễn lớn mang tính chất hoành tráng. Nhà hát Hòa Bình đã đứng ra hạch toán với các nghệ sỹ theo kiểu “nhà nước và nhân dân cùng làm” để thực hiện những vở diễn lớn như Tình nghệ sĩ (1992), Anh Sui Chị Sui (1995)… đã minh chứng rõ nét thành cho sự thành công này. Giai đoạn cực thịnh này của sân khấu Tp.Hồ Chí Minh đã tạo nên những tên tuổi nghệ sỹ mới được công chúng ái mộ như các đạo diễn: Trần Ngọc Giàu, Công Ninh, Minh Hải, Trần Văn Hưng, Hoa Hạ, Trọng Nam, Nguyễn Thị Minh Ngọc… bên cạnh các đạo diễn gạo cội như: Đoàn Bá, Trần Minh Ngọc, Huỳnh Nga, Ca Lê Hồng, Bạch Lan, Lê Văn Tỉnh, Thanh Hạp, Thu An, Minh Quân…một lực lượng diễn viên mới cũng thành danh trên lĩnh vực kịch nói và họ đã trở thành những ngôi sao mới trên bầu trời kịch nghệ như: Thành Lộc, Minh Hoàng, Thanh Hoàng, Việt Anh, Hữu Châu, Hồng Vân, Quốc Thảo, Thanh Thủy, Phương Linh … 

Gần đây, khi cuộc sống ngày càng hối hả, nhiều người không có đủ thời gian để bước vào rạp hát ngồi xem hết một vở kịch dài thì Đất Sài Gòn – Tp.Hồ Chí Minh là nơi đã xuất hiện loại hình Kịch cà phê giúp họ vừa giải trí vừa thư giãn theo “gu” của mình. Khi phong trào phim kinh dị, phim ma của phương Tây hút khán giả thì những người làm kịch nói ở Nam bộ đã nhanh chóng cho ra lò loại “kịch ma- kịch có yếu tố kinh dị” và lại gây nên hiện tượng sốt vé. Thế nhưng một thời gian sau thì khán cũng đã bắt đầu bội thực với những cách làm kịch nói được làm theo kiểu “ăn xổi ở thì” và Kịch nói Tp.Hồ Chí Minh hiện nay đang rơi vào một cuộc khủng hoảng mới khi lượng khán giả đến xem không còn đông như xưa và chất lượng những vở diễn cũng đến hồi báo động.

  1. Lời Kết

So với một số loại hình nghệ thuật khác thì kịch nói xuất hiện ở nước ta nói chung và Nam Bộ (trong đó có Sài Gòn - Tp.Hồ Chí Minh) nói riêng được xem là khá muộn. Tuy nhiên khi kịch nói xuất hiện ở Sài Gòn và nay là Tp.Hồ Chí Minh thì nó bắt đầu mang đậm hơi thở của địa phương nơi đây, làm cho nó có một màu sắc riêng, một phong thái riêng và sau một thời gian nó đã trở thành một loại hình nghệ thuật đặc sắc, phản ánh kịp thời những vấn đề của cuộc sống xã hội. Ngày nay kịch nói đã trở thành một món ăn tinh thần quen thuộc đối với một bộ phận người dân Thành phố. Trên bản đồ nghệ thuật biểu diễn cả nước giờ đây không thể thiếu một phần hoạt động quan trọng của nghệ thuật kịch nói ở Tp.Hồ Chí Minh. Để có được bộ mặt của Kịch nói Tp.Hồ Chí Minh như hôm nay là cả một quá trình vận động, phát triển và phấn đấu của biết bao thế hệ nghệ sĩ. Tin chắc rằng, trong giai đoạn khó khăn hiện nay thì kịch nói tại Tp.Hồ Chí Minh nói riêng và Nam bộ nói chung sẽ lại có những điều chỉnh để tiếp tục mang đến những dấu ấn mới, xứng đáng là nơi “đi trước về trước” của kịch nói Việt Nam.

Tài liệu tham khảo

  1. Trần Trọng Đăng Đàn (1989), về sân khấu, văn học, điện ảnh, ca nhạc…và về đời sống văn hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn Nghệ Tp.Hồ Chí Minh.
  2. Trần Trọng Đăng Đàn (1998), 23 năm cuối của 300 văn hóa, nghệ thuật Sài gòn – Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn Nghệ.
  3. Phan Kế Hoành – Huỳnh Lý (1978), Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam (trước Cách mạng tháng Tám), Nxb văn hóa, Hà Nội.
  4. Vương Hồng Sển (2004), Sài Gòn Năm xưa, Nxb Tổng hợp Đồng Nai
  5. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng chủ biên (1998) Địa chí văn hóa Tp.Hồ Chí Minh, tập III: Nghệ thuật, xnb Thành Phố Hồ Chí Minh.
  6. Trịnh Văn (1961), “Nền ca - kịch cải - lương đã đi đến đâu”, Văn Đàn,  3, 4 (Số 22), Tr.12-13, 27.
  7. Đình Quang (2005), Về sân khấu Việt Nam (tập I), Nxb Văn hóa Thông tin - Hà Nội.
  8. Trọng Nam (1936),Tình hình kịch trường trong Nam vừa qua, Kịch bóng. (Số 12), Tr.16 – 18.  
  9. Nguyên Lộc (1961), “Vài nhận xét về tình hình thoại kịch”, Văn Đàn, (số 6), tr.1,15.
  10.  Trần Văn Khê (2012), Tôi gọi Kim Cương là Nữ Hoàng kịch  nói, //sgtt.vn/Van-hoa (31/7/2012)
  11. Mỹ Tín (1961), “Nhân nghe nhà soạn kịch Vy Huyền Đắc diễn thuyết”, Văn Đàn. - 8, 9 (Số 11), Tr.5.

Theo: Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, tr.76-78; ISSN: 0866 – 8655; số 395, tháng 5/2017 (Bộ VH,TT&DL);

Thông tin:

Thạc sĩ HUỲNH CÔNG DUẨN (thạc sĩ đạo diễn Hoàng Duẩn)

Khoa quản lý Văn hóa Nghệ Thuật

Trường Đại học Văn hóa TPHCM

Điện thoại: 0908 79 80 85 – 0902 575 067

Emai:

[email protected]

Share:

Tags: Law, Juggement, lawyer, Cases